Hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều có một loại tiền tệ riêng biệt hoặc tại một khu vực nhất định, sử dụng đồng tiền chung là một trong những cách để giúp quản lý tiền tệ trong khu vực đó dễ dàng hơn. Đức là một trong những quốc gia áp dụng hình thức này.
Hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều có một loại tiền tệ riêng biệt hoặc tại một khu vực nhất định, sử dụng đồng tiền chung là một trong những cách để giúp quản lý tiền tệ trong khu vực đó dễ dàng hơn. Đức là một trong những quốc gia áp dụng hình thức này.
Có rất nhiều điểm đến lý tưởng để bạn ghé thăm khi đến Séc, hãy cùng tham khảo qua một số địa điểm nổi bật ngay dưới đây nhé:
Nằm tại trung tâm của Phố Old Town và được bao quanh bằng những tòa nhà duyên dáng mang phong cách kiến trúc Baroque, Gothic và Rococo, Quảng trường Phố Old Town là một nơi tuyệt vời để đi thăm thú. Được xây dựng từ thế kỉ 15 nơi đây còn lưu trữ nhiều lối kiến trúc độc đáo từ những thời cổ đại để khách du lịch chiêm ngưỡng tới ngày nay.
Tọa lạc gần với vị trí của nhà thờ Đức Bà Tyn, nhà thờ này mang phong cách kiến trúc Baroque của thành cổ Praha tuyệt mỹ được xây dựng từ thế kỉ 18.
Trên đây chỉ là một số gợi ý về địa điểm nổi tiếng để bạn có thể khám phá khi đến Séc, để có được những tận hưởng trực tiếp thú vị nhất, bạn hãy đặt vé máy bay để có được chuyến đi tới Séc và cho mình những cảm giác tuyệt vời nhất nhé.
Cộng hòa Séc cũng có những nét đặc trưng về khí hậu, thời tiết với nền nhiệt độ khá ổn định, dễ chịu quanh năm nên bạn có thể ghé thăm nơi đây vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Nơi đây cũng có 4 mùa đặc trưng với mùa đông rơi vào khoảng tháng 10 với nhiệt độ thấp nhất có thể xuống dưới 0 độ C. Trong khi đó mùa hè rơi vào khoảng từ tháng 5 đến tháng 8 thì lại có nhiệt độtầm 30 độ C và cũng có thể cao hơn. Mùa hè cũng là thời điểm có lượng mưa cao nhất ở Séc. Tùy vào từng thời điểm cụ thể mà bạn có thể sắp xếp lịch trình chuyến đi cũng như trang phục khác nhau để chuyến hành trình của mình diễn ra an toàn và ý nghĩa nhất.
Lựa chọn được một thời gian vàng để ghé thăm đất nước này cũng sẽ giúp bạn chủ động hơn trong việc chuẩn bị tài chính hay đặt vé máy bay đi Séc giá rẻ.
Đến với mỗi quốc gia nước ngoài, bạn đều cần chuẩn bị thật kỹ càng về tài chính nhất là cần tìm hiểu rõ xem tiền tệ được quy đổi như thế nào. Với một số quốc gia họ sử dụng đồng tiên chung như đô la hay Bảng Anh… Tuy nhiên, một số quốc gia khác lại chỉ sử dụng loại tiền đặc trưng của quốc gia đó giống như Cộng hòa Séc.
Crowns Séc - Czech Koruna là tên của loại tiền tệ được sử dụng tại Cộng hòa Séc chỉ viết tắt cho koruna Séc CZK Giấy vương miện tiền giấy mệnh giá 100, 200, 500, 1000, 2000, 5000 và. 1 đồng xu, 2, 5, 10, 20, 50 giá 10 CZK trị giá hơn 3 đô la một chút. Do vậy, để có thể chi trả cho các chi phí như ăn uống, ngủ nghỉ hay đi lại tại Séc, bạn cần quy đổi tiền của mình ra đơn vị này để dễ dàng chi trả cho người dân địa phương. Bạn đổi tiền trực tiếp tại các ngân hàng uy tín trong nước để không bị chênh lệch nhiều về giá nhé.
Xem thêm: Vé máy bay Vietjet Air
Đồ ăn của Séc khá rẻ nên bạn có thể bỏ ra một số tiền nhỏ nhưng vẫn được thưởng thức những món ăn ngon truyền thống của quốc gia này. Đồ ăn của Séc khá đậm đà, phổ biến nhất là những món ăn được chế biến từ thịt để ăn kèm với bánh mì và khoai tây xắt lát. Bên cạnh đó, những món ăn tại Séc cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng từ nền ẩm thực của các quốc gia khác như Áo và Hungary nhưng các món ăn của Cộng hòa Séc vẫn rất thơm ngon, sáng tạo và tràn đầy nhiệt huyết của người đầu bếp.
Một số món ăn truyền thống của Cộng hòa Séc để bạn thưởng thức đó là súp tỏi, Nakládaný hermelín, Giăm bông cuộn nhồi cải ngựa, Phô mai Hermelin muối chua, Ngâm dìm, Cá cuốn rau muối chua…
Đô la Sing là tiền tệ chính của Singapore được sử dụng phổ biến nhất. Loại tiền này thường được ký hiệu theo đô $ hoặc được ký hiệu theo cách khác là S$ để phân biệt với các loại đô la khác trên thế giới.
Ngoài loại tiền đô la Singapore (SGD) và xu Singapore thì những loại tiền khác như: như đồng tiền đô la Mỹ, úc, đồng yên của Nhật và Bảng Anh cũng cho phép sử dụng rộng rãi tại các cửa hàng khu mua sắm và nhà hàng của đảo quốc.
Được mệnh danh là thiên đường mua sắm nên ở Singapore áp dụng tất cả các loại hình thanh toán. Nhưng thanh toán được khách hàng Việt Nam sử dụng nhiều nhất và tiện nhất đó là:
Thẻ tín dụng (thẻ Visa hoặc Master carf) và phí thanh toán là 3-5%
Tiền mặc Singapore SGD, tỷ giá 1SGD (đô la Sing) = 17,200VND, thường phí thanh toán không có nhưng đã bị tính khi đổi tiền.
Khi đi du lịch ở Singapore du khách nên đổi tiền trước ở Việt Nam. Nếu du khách ở Hồ Chí Minh có thể đổi tiền ở ngân hàng hoặc ghé đến các địa điểm đổi tiền uy tín ở các tuyến đờng như: Nguyễn Huệ, Lê Lợi, khu Bùi Viện, Phạm Ngũ Lão… Còn nếu bạn đang ở Hà Nội có thể đến đường Hà Trung để đổi. Các quầy đổi tiền ở đây cũng không chênh lệch quá nhiều.
Tiền sử dụng chính của quốc đảo sư tử là đô la Sing (SGD)
Tính trong tháng 9.2023, tỷ giá 1€ ≈25.730,49 vnđ. Mức tỷ giá này sẽ không cố định mà thay đổi khác nhau tùy vào từng thời điểm. Điều này rất quan trọng nếu bạn phải chứng minh tài chính khi du học nghề Đức.
Tại Việt Nam, bạn có thể dễ dàng đổi tiền Việt sang đồng Euro tại các ngân hàng, tuy nhiên hãy nhớ là rõ các thông tin về phí ngân hàng đối với giao dịch quốc tế, mức chuyển đổi ngoại tệ. Chú ý, bạn không nên đổi tiền ở sân bay và chợ đêm để tránh những khoản phí không cần thiết.
Nếu bạn cần chuyển tiền thì có thể tới các quầy giao dịch của ngân hàng hoặc chuyển tiền online qua internet banking. Bạn nên làm thẻ visa để quá trình chuyển tiền quốc tế diễn ra nhanh chóng hơn.
Tại Đức, khi cần chuyển tiền, bạn có thể đến điểm giao dịch đại lý Western gần nhất để điền thông tin vào phiếu gửi tiền, sau đó sẽ được cấp một mã gồm 10 chữ số. Người nhận tiền sẽ ra ngân hàng, mang theo chứng minh thư và đọc 10 chữ số này thì sẽ được nhận tiền.
Với những kinh nghiệm du lịch chi tiết trên du khách có thể thoải mái khám phá hết những ngóc ngách của Singapore rồi. Dưới đây là những điểm tham quan, vui chơi ấn tượng của Singapore mà du khách không thể bỏ qua
Vịnh Marina Bay: Đây là một điểm đến hiện đại có cuội sống sa hoa nhất của Singapore. Khi đến với Marina Bay du khách sẽ được chiêm ngưỡng những công trình biến trúc hiện đại, cùng những công trình nhân tạo vĩ đại ấn tượng mà khó có thể tìm thấy được những nơi nào khác. Trong đó, Cloud Forest, khu vườn Gardens by the Bay, Flower Dome hay tòa nhà Marina Bay Sands là những công trình kiến trúc mà du khách nên chiêm ngưỡng và khám phá qua một lần khi đến với vịnh Marina Bay
Marina Bay là điểm tham quan tuyệt vời của Singapore
Bảo tàng khoa học nghệ thuật: Đây cũng là một công trình kiến trúc được thiết kế độc đáo và ấn tượng được rất nhiều du khách yêu thích. Bảo tàng nghệ thuật nằm tại Vịnh Marina bay là điểm diễn ra những chương trình triển lãm nổi tiếng khắp thế giới. Không chỉ thu hút du khách bởi kiến trúc độc đáo lấy ý tưởng từ một bông sen, và được ví như một bàn tay đang chào đón của Singaproe mà hiện tại bảo tàng nghệ thuật khoa học đnag sở hữ hơn 21 phòng trưng bày với rất nhiều hiện vật khủng. Đây thật sự là một điểm tham quan tuyệt vời sẽ cho du khách những trãi nghiệm tuyệt vời và đáng nhớ nhất.
Công viên Merlion: Công viên Merlion là điểm đến mà bạn không thể bỏ qua khi du lịch Ở Singapore. Công viên này có diện tích 2.500 m2, và thu hút du khách bởi bức tượng đầu sư tử mình cá là niểm tự hòa của người dân Singapore. Từ Công viên Merlion du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh đẹp của toàn thành phố với view vô cùng đẹp. Đây là một thắng cảnh thu hút hàng triệu du khách ghé thăm và check in sống ảo, mỗi năm.
Khu Orchard Road: Nếu bạn là một tín đồ mua sắm thì không thể bỏ qua thiên đường mua sắm nổi như “cồn” ở Singapore. Khi đến với khu Orchard Road du khách sẽ được thoải thích mua sắm cho mình những sản phẩm thời trang từ những nhãn hàng bình dân cho đến các thương hiệu lớn nổi tiếng trên thế giới. Nếu đi đúng vào dịp sale “Khủng” du khách có thể mang về cho mình những món hàng mơ ước vời giá rất rẻ. Đây cũng là điểm tham quan nổi bậc được nhiều du khách yêu thích mỗi dịp lễ tết hoặc mùa giáng sing…
Đối với những du khách du lịch ở quốc đảo lần đầu tiên thì phải năm được những kinh nghiệm trước khi đi. Hy vọng với những thông tin được liệt kê trên có thể giúp du khách giải đáp được các thắc mắc khi đi du lịch Singaproe nên sử dụng lọai tiền gì? nên mang theo bao nhiêu tiền?... Từ đó giúp du khách có một chuyến đi thuận lợi và đáng nhớ nhất.
Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ gì để thuyết pháp
ĐỨC PHẬT ĐÃ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ GÌ ĐỂ THUYẾT PHÁP
Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ gì để tuyên thuyết giáo pháp là câu hỏi được giới nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu trong nhiều thế kỷ qua. Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu chính thức nào đưa ra một kết luận khả dĩ ngoài những giả thuyết về một hình thể ngôn ngữ nào đó đã được Đức Phật sử dụng. Trong khi chờ đợi câu trả lời thỏa đáng cho thắc mắc này, chúng ta có thể y cứ một số dữ kiện được truyền tụng trong thánh điển để tìm ra những lý giải khả tín nhất.
Vấn đề được bắt đầu từ ý tưởng Đức Phật đã sử dụng tiếng Pāli để thuyết pháp của giới Phật giáo Theravāda phát xuất từ quan điểm của ngài Buddhaghosa.
Cullavagga (Tiểu phẩm) của tạng luật Pāli có đề cập đến câu chuyện hai vị Tỷ-kheo tên là Yameḷu và Tekula (vốn xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn, có lời nói nhã nhặn, âm điệu ngọt ngào) đã than phiền với Đức Phật rằng: “Bạch Ngài, hiện nay các Tỷ-kheo có tên gọi khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy làm hỏng lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch Ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật”.
Ý nghĩa đoạn ghi chép trên mô tả giáo đoàn thời Đức Phật bao gồm nhiều giai tầng trong xã hội. Họ đến từ nhiều quốc độ với tên gọi, dòng dõi, giai cấp, chủng tộc... khác nhau nhưng cùng chung một lý tưởng, sống đời phạm hạnh, và trong lúc hoằng dương giáo pháp của Đức Phật họ đã sử dụng ngôn ngữ của xứ sở mình. Đối với hai vị Tỷ-kheo Yameḷu và Tekula, việc dùng phương ngữ để truyền bá giáo pháp là làm mất giá trị lời Phật dạy. Cho nên, họ đã ngỏ lời thỉnh cầu Đức Phật được hoán chuyển lời dạy của Ngài sang dạng có niêm luật.
Niêm luật (chandaso) ở đây chỉ cho tiếng Phạn Vệ-đà (Vedic Sanskrit), là ngôn ngữ dành riêng cho giới Bà-la-môn, quý tộc và được dùng để lưu truyền thánh thư Vệ-đà thời bấy giờ. Đức Phật không đồng ý lời thỉnh cầu của Yameḷu và Tekula. Ngài khiển trách hai vị Tỷ-kheo đó, bảo rằng không nên hoán chuyển lời dạy của Phật sang Phạn ngữ, bởi vì “Sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các Tỷ-kheo, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin nơi những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.” Chính vì thế, Đức Phật chỉ thị (nguyên văn Pāli): “Anujānāmi, bhikkhave, sakāya niruttiyā buddhavacanaṃ pariyāpuṇitunti.” Trọng tâm bàn luận nằm ở từ sakāya niruttiyā.
Lời chỉ thị trên được dịch là: “Này các thầy Tỷ-kheo, Ta cho phép học tập lời dạy của Phật bằng ngôn ngữ của mình”.
Trong bản chú giải luật tạng, ngài Buddhaghosa giải thích từ sakāya niruttiyā mang ý nghĩa là sự giảng giải được nói ra bởi đấng Chánh Đẳng Giác (Vinaya Atthakatha, Vi, 1214), có nghĩa là Đức Phật dạy các đệ tử học giáo pháp bằng ngôn ngữ của mình tức là tiếng Magadhi như Đức Phật đã dùng. Y cứ sự giải thích này, giới Phật giáo Theravāda tin rằng Tam tạng giáo điển được kiết tập bằng tiếng Magadhi, một ngôn ngữ phổ thông của xứ Magadha, và đây là ngôn ngữ nền tảng trong sự sáng thành tiếng Pāli về sau.
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta cũng tìm thấy trong bộ A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa luận của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (Sarvastivada) và một số bản kinh Phật giáo sơ kỳ.
Đại Tỳ-bà-sa luận có dẫn một đoạn luật kể lại câu chuyện Đức Phật dùng thánh ngữ (tiếng Phạn) để tuyên thuyết Tứ đế cho bốn vị thiên vương nhưng chỉ có hai trong bốn vị đó hiểu. Vì lòng thương xót muốn lợi ích cho họ, Đức Phật lần lượt dùng ngôn ngữ bình thường của nước giáp ranh phía nam Ấn Độ (南印度邊國俗語) và ngôn ngữ Miệt-lệ-xa để hai vị thiên vương còn lại có thể lĩnh hội được giáo pháp bằng ngôn ngữ của mình.
Đại Tỳ-bà-sa luận cũng cho rằng Đức Phật có thể diễn đạt bất cứ điều gì Ngài muốn nói cho thính chúng bằng bất cứ ngôn ngữ nào và người nghe có cảm giác như Ngài đã dùng các thứ tiếng trong cùng một lúc. “Nếu người Chí-na đến tham gia pháp hội, họ cho rằng Đức Phật sử dụng tiếng Chí-na giảng dạy cho họ. Nhưng nếu có nhiều chủng tộc khác nhau đến tham dự, như người nước Lịch-ca, Diếp-phạt-na, Đạt-thứ-đà, Mạt-bà-khư-sa, Đỗ-hóa-la, Bác-cát-la... tất cả đều cho rằng Đức Phật riêng vì mình sử dụng tiếng của nước mình để thuyết giảng, tùy theo chủng loại khác nhau đều được nghe hiểu”.
Dựa vào Đại Tỳ-bà-sa luận ta thấy, tùy theo chủng tộc mà Đức Phật dùng phương ngữ tương ứng để thuyết giảng cho người ở đó hiểu được lời dạy của Ngài bằng chính ngôn ngữ bản địa chứ không sử dụng một loại ngôn ngữ cố định. Điều này được Cao Hữu Đính mô tả cụ thể: “Với tín đồ ở Vương-xá, Ngài nói tiếng nước Ma-kiệt-đà; với tín đồ Xá-vệ, Ngài nói tiếng nước Kiều-tát-la; với tín đồ Ba-la-nại, Ngài nói tiếng Ca-thi; với tín đồ Tỳ-xá-ly, Ngài nói tiếng nước Bạt-kì; với tín đồ Kiều-thưởng-di, Ngài nói tiếng Bạt-sa.”
Việc sử dụng phương ngữ cũng được ghi nhận trong kinh số 139 - Vô tránh phân biệt thuộc Trung bộ kinh. Ở bản kinh này Đức Phật đã dạy các thầy Tỷ-kheo về bảy pháp vô tránh phân biệt, trong đó pháp thứ bảy là “chớ có chấp trước phương ngữ, chớ có đi quá xa ngôn ngữ thường dùng”.
Đức Phật giải thích rằng, mỗi quốc độ có một ngôn ngữ riêng, ở quốc độ này gọi là pāti nhưng ở quốc độ khác lại sử dụng những từ khác như patta, vittha, serāva, dhāropa, poṇa, hana pisīla... Vì vậy Đức Phật dạy các vị Tỷ-kheo không nên bảo thủ chấp trước cho rằng cách diễn tả bằng ngôn ngữ của mình là sự thật, còn lại là hư vọng; mà chỉ nên tùy thuận y cứ vào cách diễn tả bằng ngôn ngữ ở quốc độ đó để giải thích. Có như vậy mới không chấp trước phương ngữ, không đi quá xa ngôn ngữ thường dùng.
Từ đó cho thấy Đức Phật không đồng ý cho các thầy Tỷ-kheo dựa vào bất kỳ một ngôn ngữ nào làm tiêu chuẩn khi thuyết giảng, mà nên sử dụng một ngôn ngữ người dân thường sử dụng để họ có thể nghe và hiểu được giáo pháp. Điều này đòi hỏi các thầy Tỷ-kheo phải thông hiểu các ngôn ngữ bản địa của mỗi quốc độ, đó cũng là một trong những mong muốn của Tôn giả Ananda đối với một thầy Tỷ-kheo: “Thưa Hiền giả Sariputta, có Tỷ-kheo thiện xảo về ý nghĩa, thiện xảo về pháp, thiện xảo về văn cú, thiện xảo về địa phương ngữ, thiện xảo về liên hệ trước sau. Cho đến như vậy, thưa Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo mau chóng đi đến hiểu biết đối với các thiện pháp, sự nắm giữ của vị ấy là khéo nắm giữ, nắm giữ nhiều, và không quên điều đã nắm giữ”.
Qua những gì đã trích dẫn phân tích, chúng ta thấy rằng một mặt Đức Phật sử dụng phương ngữ để thuyết giảng, mặt khác Ngài khuyên dạy các thầy Tỷ-kheo tránh chấp trước vào phương ngữ và nên khéo léo dựa vào ngôn ngữ thông dụng khi giảng dạy cho quần chúng. Hơn thế, nếu đã tồn tại một loại ngôn ngữ bác học dành riêng cho tầng lớp thượng lưu hẳn nhiên phải tồn tại một loại ngôn ngữ bình dân, bởi ngôn ngữ bác học là sự kết tinh, hình thành từ ngôn ngữ bình dân. Từ đó cho ta một lý do để tin rằng có một loại ngôn ngữ phổ thông được sử dụng rộng rãi trong quần chúng xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.
Những điều này làm chúng ta chuyển hướng chú ý rằng, thay vì “hỏi Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ gì để thuyết pháp?”, chúng ta hãy đặt vấn đề là “Có một ngôn ngữ chung nào được sử dụng vào thời Đức Phật hay không?”. Có lẽ vấn đề này phải nhờ đến các nhà nghiên cứu, các nhà ngôn ngữ học chuyên sâu. Riêng ở bài viết này, như đã dẫn nói, chỉ y cứ một số dữ kiện được truyền tụng trong thánh điển Phật giáo để tìm ra những lý giải khả tín chứ không thể đưa ra một đáp án mang giá trị chuyên môn được, có chăng chỉ có thể nêu ra một số đề xuất:
1. Tại cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất được tổ chức tại xứ Magadha, nhiều khả năng giáo điển đã được kiết tập bằng một loại ngôn ngữ phổ thông, sử dụng rộng rãi trong đại bộ phận quần chúng lúc bấy giờ. Điều này cho phép chúng ta miễn cưỡng chấp nhận rằng, ngôn ngữ phổ thông đó có thể là tiếng Magadhi của xứ Magadha; đồng thời gạt đi ý tưởng rằng Pāli được sáng thành từ tiếng Magadhi để rồi xem như là ngôn ngữ mà Đức Phật đã sử dụng. Bởi vì, các nhà ngôn ngữ học đã chứng minh Pāli chưa từng là một loại ngôn ngữ nói (spoken languege) mà chỉ là một loại văn ngữ (textual languege) được sử dụng để ghi chép các thánh điển của Phật giáo Theravāda tại Tích Lan vào thế kỷ I tr.TL. Ngay chính từ Pāli khởi thủy dùng để chỉ văn điển hay đoạn văn, không phải để chỉ cho một loại ngôn ngữ.
2. Tra cứu từ kinh tạng sơ kỳ, ta thấy bước chân du hóa của Đức Phật không dừng lại ở một vài vương quốc, giới hạn trong một vài chủng tộc hay giai cấp; cho nên, Đức Phật hẳn phải sử dụng nhiều phương ngữ khác nhau để truyền bá Chánh pháp nhằm giúp mọi người có thể lĩnh hội trọn vẹn lời dạy của Ngài bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình. Nếu giới hạn trong một ngôn ngữ cố định thì sự lợi ích từ lời dạy của Ngài đối với quần chúng sẽ không được nhiều, điều đó trái ngược với bản nguyện thị hiện ở đời của Ngài là “đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người”; không đúng với lời dạy của Ngài dành cho chúng đệ tử trên bước đường hoằng dương Chánh pháp: “Hãy ra đi, các thầy Tỷ-kheo, đem sự tốt đẹp đến nhiều người, đem hạnh phúc đến nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc lại cho chư thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngã.... Chính Như Lai cũng đi, Như Lai sẽ đi về hướng Uruvela ở Senānigāma để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu. Hãy mang sự tốt đẹp lại cho người khác. Được vậy, là các con đã hoàn tất nhiệm vụ.”
3. Một điều không thể phủ nhận rằng, không có gì tuyệt vời hơn khi được nghe và hiểu lời Phật dạy bằng chính ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Bằng cách đó cho ta cảm giác gần gũi, trìu mến, dễ đi vào tâm thức hơn bất cứ ngôn ngữ nào khác. Nhưng chúng ta cũng phải chấp nhận một điều rằng, tìm hiểu lời dạy của đấng Giác Ngộ bằng chính ngôn ngữ gốc hay ít ra bằng những ngôn ngữ chuyển tải gần nhất với nội dung và ý nghĩa lời Phật dạy để có thể tiếp xúc được sự uyên nguyên, đầu nguồn của chân lý vẫn là cách tuyệt vời hơn; và Pāli hay Sanskrit rõ ràng là những tia sáng diệu vợi nhất trong nhiệm vụ này mà không ngôn ngữ nào có thể sánh được.
Đại chánh tân tu Đại tạng kinh, số 1545, A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa luận, quyển 79, Luận về Thập môn, phần 9.